Lớp tàu khu trục J, K và N
Lớp tàu khu trục J, K và N

Lớp tàu khu trục J, K và N

list error: <br /> list (help)
6 x pháo QF 4,7 inch (120 mm) Mk.XII trên bệ nòng đôi CP Mk.XIX (3x2);
4 x pháo phòng không QF 2 pounder Mk.VIII (40 mm) L/39 trên bệ bốn nòng Mk.VII (1x4);
8 × súng máy 0,5 inch (12,7 mm) Mk.III trên bệ Mk.III (2x4);
list error: <br /> list (help)
6 x pháo QF 4,7 inch (120 mm) Mk.XII trên bệ nòng đôi CP Mk.XIX (3x2);
1 x pháo QF 4 inch (100 mm) Mk.V trên bệ góc cao Mk.III (1x1);
4 x pháo phòng không QF 2 pounder Mk.VIII (40 mm) L/39 trên bệ bốn nòng Mk.VII (1x4);
4 x pháo phòng không QF Oerlikon 20 mm trên bệ Mk.III (4x1);
4 × súng máy 0,5 inch (12,7 mm) Mk.III trên bệ nòng đôi Mk.V (2x2);
Lớp tàu khu trục J, K và N là một lớp bao gồm 24 tàu khu trục được Hải quân Hoàng gia Anh Quốc hạ thủy vào năm 1938. Sau khi lớp Tribal dẫn trước nhấn mạnh về vũ khí hải pháo hơn là ngư lôi, chúng quay trở lại thiết kế tàu nhỏ hơn với dàn vũ khí ngư lôi mạnh hơn. Chúng được chế tạo thành ba chi hạm đội, mỗi nhóm bao gồm tám tàu với tên được bắt đầu bằng các ký tự "J", "K" và "N". Ký tự dẫn đầu của ký hiệu lườn tàu được thay đổi từ "F" sang "G" vào năm 1940. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, chúng được cải biến liên tục, đặc biệt là vũ khí phòng không, cũng như được trang bị thêm radar. Là những tàu khu trục mạnh mẽ và hiện đại nhất của Hải quân Hoàng gia vào lúc chiến tranh nổ ra, chúng được sử dụng rộng rãi, và kết quả là phải chịu tổn thất rất cao, với sáu chiếc lớp J, sáu chiếc lớp K và một chiếc lớp N bị mất trong tổng số 24 chiếc được chế tạo.